Saturday, 16 May 2009

In Memory of My Beloved Mother, MAI THI VUI

In Nineteen hundred thirty nine, Was the year she was born.

The first day my mother cried. You raised us kids and always lived right.

We were safe and warm, Before you slept each night.

You worked hard All through your life As a friend, a mother, And a faithful wife.

You weren’t rich, or poor Or even famous. But you did your best and always loved us.

Life’s not easy Nor is it fair. You have always cared, And done for others.

So here’s a salute, To my Mother.



Mom made the days bright and happy, And the sun shone all around.

She made everything cheerful, and on her face Was a sweet peaceful smile.

On May the 5th life was not so kind And dark clouds of death gathered.



But her love brought us days of comfort and joy, And her life made it all worthwhile.















Trên ngực con nở đóa hoa hồng trắng
Quỳ trước bàn thờ cam phận mồ côi
Lạy Mẹ một đời tất tả ngược xuôi
Lạy gót chân sạm đen theo nắng gió
Lạy đuôi mắt chân chim lệ đổ
Lạy từng đường nhăn trán Mẹ thêm sâu
Lạy tóc bạc phơ trắng cả mái đầu
Lạy đêm từng đêm thức cho con ngủ
Lạy áo sờn vai , lạy mưa dầm nắng đổ
Lạy hạt sương trên áo Mẹ hừng đông
Lạy đôi tay chai sần vất vả quanh năm
Lạy ngàn âu lo, lạy trăm trăn trở
Lạy ngày bao dung, lạy đêm tha thứ
Lạy lời ru êm, lạy dòng sữa yêu thương


Con quỳ đây lạy Mẹ đến vô cùng

Trong hương khói tìm đâu hình bóng Mẹ

Nửa đoạn đời sau trong miền dâu bể

Vẫn mang nặng hoài hai chữ mồ côi

Những lạy nầy xin dâng Mẹ, Mẹ ơi!


Missing You

Do you look down at me in the night
Do you see my candle burning so big and so bright
The candle I burn that reminds me of you
The candle I hope that you would burn too.
Not a day goes by where I don't think of you hoping that you'd come back so the days won't be blue.
I feel no one understands me, apart from you. I go to your grave expecting a response to the pointless questions I can't get across.
Though sometimes In my mind I forget that you're dead but I'll make sure you keep living in my head
I love you so much it makes me so sad that I can't hear you say it back - the one thing that would make me glad. You probably think I'm silly when we didn't even know each other But to me you'll always be my Mother.



















Saturday, 11 April 2009

Having a Happy Easter Day 2009









This time of year often brings to mind colored eggs, jellybeans, and bonnets. However, the true meaning of Easter lies in the atoning sacrifice of our redeemer, Jesus Christ.
Over two thousand years ago the only begotten Son of the Father gave His life for each one of us. He had the power to give His life because He also had the power to take it back as He explains in John 10:18, "No man take it from me, but I lay it down of myself. I have power to lay it down, and I have power to take it again. This commandment have I received of my Father." He freely chose to suffer the sins of the world.
The true sacrifice did not happen as the Savior hung upon the cross, but rather in the Garden of Gethsemane. In the garden Jesus did what no mortal could do; He took upon Himself every sin of all mankind. The pain was so intense and so exquisite that He bled from every pore. It is beyond the comprehension of our mortal minds how this was accomplished, but He, and He alone, truly atoned for each one of us.
We believe that only through His name may we be saved. "Neither is there salvation in any other; for there is none other name under heaven given among men, whereby we must be saved." (Acts 3:12) There is no other name under Heaven whereby we may be saved. We also believe that we must do more than merely accept Him as our Savior. We are each individually responsible for our acceptance or denial of His gospel. Acceptance of the gospel of Jesus Christ means we strive to become like Him and like our Father in Heaven. "Be ye therefore perfect, even as your Father which is in heaven is perfect." (Matthew 5:48) This means we keep all of His commandments and live our lives in accordance with His teachings. We will be judged according to our works. "And thus saith the Lord: They shall stand as a bright testimony against this people, at the judgment day; whereof they shall be judged, every man according to his works, whether they be good, or whether they be evil." (Mosiah 3:24) When we truly accept Him in our lives we make use of His sacrifice. When we deny His gospel we mock his ultimate gift.


Because of the atonement we will all be resurrected and saved from physical death. However, only those who come unto Christ and are truly born again can be saved from spiritual death. Only those who repent can enjoy the full effect of the atonement.
We further believe that after all we can do it is only through the grace of God that we can be saved. We must do our best to live the gospel, but even if we lived it perfectly we have no power to save ourselves. "Wherefore, my beloved brethren, reconcile yourselves to the will of God, and not to the will of the devil and the flesh; and remember, after ye are reconciled unto God, that it is only in and through the grace of God that ye are saved." (2 Nephi 10:24) Salvation comes as a free gift through the atonement of Jesus Christ.
At this time of year we should seek Him and His gospel. We should remember His sacrifice and how this one act makes it possible for us to return to our Heavenly Father. Amidst the celebration we should take a quiet moment to pour out our hearts in gratitude for Jesus Christ, our Savior and Redeemer.

Friday, 10 April 2009

TUẦN THÁNH 2009: NÀY LÀ NGƯỜI



“Này là người”

Đức Giêsu chịu đóng đinh là biểu tượng cho những gì nhân loại đã làm đối với sự lành. Chúng ta đã giết chết sự lành. Hoá ra không phải chúng ta sợ cái ác mà là sợ sự lành! Trong trình thuật thương khó theo thánh Gioan, Philatô đem Chúa Giêsu ra giới thiệu cho dân bằng những lời “Ecce homo – Này là người”. Không còn từ ngữ nào hơn để diễn tả con người và sứ vụ nghịch thường của chính Con Thiên Chúa.

“Này là người” – nơi Người nhân tính đã được hội nhập trọn vẹn đến nỗi Người đã làm người trọn vẹn và thực sự là mẫu mực cho mỗi người chúng ta, để ta biết sống thế nào cho trọn nghĩa con người và là thánh nhân đúng nghĩa.

“Này là người” – con người đã sống cho người khác, chữa lành cho họ, khôi phục họ và yêu thương họ cho đến chết.

“Này là người” – con người đã can đảm chọn phụ nữ làm môn đệ và bạn thân thiết trong thời đại của Người (thời mà người ta còn rẻ rúng phận đàn bà).

“Này là người” – con người đã tuyên bố rằng mình có mối liên hệ cá vị, duy nhất với Thiên Chúa của Israel, Đấng mà Người gọi là “Abba” (Cha ơi).

“Này là người” – con người đã đến trong thế giới này như đấng vô tội và tuyệt hảo, và chính nhân loại chúng ta đã giết chết ngài. Xét cho cùng, chúng ta huỷ diệt chính con người tuyệt hảo mà ta khao khát và yêu mến.

Ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc sống, ta đã bị sức mạnh tự tàn phá này làm cho ta thành tăm tối. Đó là tội lỗi đầu tiên, tội mù loà trước sự lành. Lại chẳng phải là một phần của điều mà ta gọi là tội nguyên tổ sao, nghĩa là năng lực nội tại trong xác thịt con người, năng lực tự tàn phá và căm ghét chính mình?
Và sự khôn ngoan của thập giá



Ngày thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta họp nhau như cộng đoàn Kitô hữu, cộng đoàn của Đấng được giới thiệu “Này là người” và cặp mắt ta dán vào Chúa Giêsu, Đấng đã mang lấy tất cả tội lỗi và khổ đau của ta trên vai Người, để ta cảm nghiệm được sự bình an và hoà giải với Đấng đã sai Người. Nếu ta không thực sự gặp gỡ và ôm lấy Con Người của thập giá, thì mọi nỗ lực của ta đều vô hiệu. Nỗ lực của ta có thành đạt hay không là tuỳ vào việc ta ôm lấy Chúa Giêsu và thập giá của Người mỗi ngày, để cho mầu nhiệm Vượt Qua biến đổi cuộc đời mình. Thập giá Chúa Giêsu dạy ta rằng điều vốn bị coi là đáng ghét và không đáng nhớ đã được biến đổi thành cái đẹp, niềm hi vọng và sự sống mới. Ước gì thập giá thực sự trở thành sự khôn ngoan của ta, nguồn đỡ nâng trong cơn dao động, nơi nương náu khi đối diện hiểm nguy, nguồn bảo vệ trong hành trình cuộc sống, cho đến khi Chúa đón ta vào ngôi nhà thiên quốc. Hãy tiếp tục bước đi mỗi ngày với dấu Thánh giá, và hãy nhớ ta đang thực sự làm gì và tuyên xưng gì khi làm dấu Thánh giá:

“Nhân danh Chúa Cha”
Ta đặt tay lên trán vì ý thức rằng
ta chẳng biết làm sao để xây dựng thế giới này cho công chính, bình an và hi vọng hơn.

“Nhân danh Chúa Con”
Ta chạm tay vào giữa thân mình,
đón nhận mọi sợ hãi và đau đớn phát sinh trong hành trình từ cõi chết đi vào cõi sống.

“Nhân danh Chúa Thánh Thần”
Ta ôm lấy trái tim để nhớ rằng từ trung tâm thập giá Chúa Giêsu,
trái tim bị tổn thương của Thiên Chúa có thể mang lại sự chữa lành và ơn cứu độ cho chúng ta.

Monday, 23 March 2009

Church of the Loaves and Fishes in Tabgha
















The Church of the Multiplication of the Loaves and Fishes (also known as the Church of the Multiplication) is a church in Tabgha on the northwest shore of the Sea of Galilee. Tabgha an Arabic corruption of the Greek name Heptapegon (Seven Springs) is the traditional site of the Miracle of the Multiplication of the Loaves and the Fishes. The church is modern but stands on the site of 4th and 5th-century churches. It preserves a splendid early Christian mosaic as well as the traditional stone on which the miraculous meal was laid.
The miraculous feeding of five thousand people is described in Mark 6:30-44, just before Jesus walks on water. The Gospel account of the loaves and fishes does not specify where it took place; only that it was in a "remote place" (6:32,35) on the shores of Galilee.
According to Mark's account, Jesus and his disciples had gone out in a boat to this remote place for some peace and quiet, but the crowds ran ahead "from all the towns" and met him when he landed. By then it was dinnertime and they were not in a village where food could easily be bought, so Jesus fed them all by miraculously multiplying his disciples' five loaves and two fishes. Then Jesus directed them to have all the people sit down in groups on the green grass. So they sat down in groups of hundreds and fifties. Taking the five loaves and the two fish and looking up to heaven, he gave thanks and broke the loaves.Then he gave them to his disciples to set before the people. He also divided the two fish among them all. They all ate and were satisfied, and the disciples picked up twelve basketfuls of broken pieces of bread and fish. The number of the men who had eaten was five thousand. (Mark 6:40-44)

The earliest building at Tabgha was a small chapel (18 x 9.6 m) from the 4th century CE; only a part of its foundations was uncovered. This was probably the shrine described by the pilgrim Egeria at the end of the 4th century: In the same place (not far from Capernaum) facing the Sea of Galilee is a well watered land in which lush grasses grow, with numerous trees and palms. Nearby are seven springs which provide abundant water. In this fruitful garden Jesus fed five thousand people with five loaves of bread and two fish. The stone upon which the Master placed the bread became an altar. The many pilgrims to the site broke off pieces of it as a cure for their ailments.
During the fifth century, a large monastery and a church decorated with exquisite mosaic floors was built on the site. The complex covered an area of 56 x 33 m. and included courtyards and many rooms used as workshops for a variety of crafts as well as for lodging for the monks and the many pilgrims who came to visit.
The monastery and church at Tabgha were destroyed in the 7th century, probably during the Arab conquest of the country, and buried beneath a thick layer of silt and stones. In the 1980s, after excavation, the church was restored to its Byzantine form, incorporating portions of the original mosaics.
The basilical church is divided by two rows of columns into a central hall and two aisles. In the eastern wall is a semi-circular apse and on either side of it, rooms for the officiating clergy. A raised platform in front of the apse is surrounded by a chancel screen and at its center an untrimmed stone was preserved under the altar. This is the traditional site of the miracle of the Loaves and the Fishes. A mosaic depicting a basket of bread flanked by two fish was found behind the untrimmed stone. It was added in the 6th century, suggesting the stones significance; today it is displayed in front of the altar.
The church is famous for its mosaics, unique among Byzantine churches in the Holy Land. Most of the floor of the church is decorated in ordinary geometric patterns. The unique principal mosaics decorate both sides of the transept. Particularly well preserved is the one on the left of the platform, a square carpet (6.5 x 5.5 m.) bordered with a band of lotus flowers.
The carpets are decorated with multi-colored representations of the local flora and fauna, interspersed with several buildings. The flowers and animals, mainly birds, are so naturalistically depicted that it is possible to identify lotus, oleander and lily; also duck, snipe, heron, goose, dove, swan, cormorant, flamingo and stork. A tower marked with bands bearing Greek letters, probably for measuring the water level of the Sea of Galilee (known as a "nilometer"), is also depicted.
The church belongs to the Order of the Benedictines and is open to visitors. Today, as in Byzantine times, large numbers of pilgrims come to visit.

Friday, 20 March 2009

The Dead Sea
















Also known as Bahr Lut, Eastern Sea, Lake of Asphalt, Salt Sea, “Sea of Sodom and Gomorrah,” Sea of the Arabah, Sea of the Devil, “Sea of the Plain,” Sea of Zoar, Stinking Lake. Dead Sea, located in the south of the Jordan Valley, the salty closed sea 400 meters below sea level is the lowest spot on Earth. The scenery on the shores of the sea in enchanting.
5.000 Years of History
King David, King Herod, Jesus, and John Baptist were closely linked with the Dead Sea and its surroundings. The prophets knew it via the infamous Sodom and Gomorra. During the Egyptian conquest it is said that Queen Cleopatra obtained exclusive rights to build cosmetic and pharmaceutical factories in the area. Later on, the wily Nabateans discovered the value of bitumen extracted from the Dead Sea and needed by the Egyptians for embalming their mummies. Aristotle wrote about the remarkable waters. In Roman times the Essenes settled in Qumran on the Dead Sea northern shore as a place of refuge and on the heights of Masada a small group of rebellious Jewish zealots held out against the might of the Roman Legion. The remoteness of the region attracted Greek Orthodox monks since the Byzantine era. Their monasteries such as Saint George in Wadi Kelt and Mar Saba in the Judean Desert are places of pilgrimage. Bedouin tribes have continuously lived in the area and more recently explorers and scientists arrived to analyze the minerals and conduct research into the unique climate. Since the 1960's, tourists from all the world have also explored the Dead Sea region.
The Lowest Point on Earth
Situated on the heart of the Great Syrian-African rift valley that stretches throughout Israel and beyond, the Dead Sea is the lowest point on the earth (400 meters or 1,320 feet below sea level), and is flanked by the Judean Mountains on the west, the Hashemite Kingdom of Jordan and the Mountains of Moab on the east, the Jordan Valley and Sea of Galilee to the north and the Negev Desert as well as the Red Sea to the south.
The Dead Sea Water
The water of the Dead Sea contains 21 minerals including magnesium, calcium, bromine and potassium. 12 of these are found in no other area or ocean and some are recognized for imparting a relaxed feeling, nourishing the skin, activating the circulatory systems and for easing rheumatic discomfort and metabolic disorders. As an example, the Dead Sea contains 10 times more salts and minerals than the Mediterranean Sea. The high salt and mineral concentration enables everyone to float in its waters but doesn't allow the proliferation of fish and other marine life.
Thermo-mineral Springs
Found in several locations along the Dead Sea shores. The many minerals contained in the warm water are dominated by sulfur. Soaking in the heated sulfur pools activates the circulatory system and increases the oxygen supply to the body.
Natural mineral spring waterFlows from the Judean Hills into the lower areas fronting the Dead Sea. When hiking along the area's "wadis" (seasonal dry river beds) and oasis, one can often splash in waterfalls and cool streams. Natural mineral spring water is bottled and locally marketed throughout the country.
The Sun
The Dead Sea is the only place on earth where one can sunbathe for extended periods with little or no sunburn because harmful ultraviolet rays are filtered through three natural layers: an extra atmospheric layer, an evaporation layer that exists above the Dead Sea and a rather thick ozone layer.
The Air
The region's miraculous air is dry, unpolluted and pollen-free with low humidity. Due to the constant evaporation, the air contains high concentrations of several minerals, mainly bromine, providing a genuinely relaxing effect.
Because of the high barometric pressure it has approximately 8% more oxygen than anywhere else on earth and consequently makes breathing easier.
Black Mud
A signature element of the Dead Sea, black mud is homogeneous mixture of Dead Sea minerals, important organic elements from the shoreline as well as earth. Indulging in a black mud body wrap has both cosmetic and therapeutic benefits - known to cleanse and stimulate the skin, relieve muscle and emotional tensions, improve blood circulation, and ease rheumatic pain. The rich minerals and the mud tightening action promote circulation by increasing the supply of oxygen to and removing the toxins from the skin, thus toning and firming up skin tissues, leaves the skin glowing and youthful looking. Dead Sea Mineral Mud cleans, purifies, and restores the skin's natural minerals.
The Salt
As the name suggests, the Dead Sea is devoid of life due to an extremely high content of salts and minerals. It is these natural elements which gave the water its curative powers. Dead Sea Salt and Dead Sea Mud have been recognized by millions of people as a single source of health and beauty since the days of Herod the Great, more than 2,000 years ago. The Dead Sea has a 33% concentration of salts and minerals (compared to only 3% in the ocean). Dead Sea Salt original mineral composition improves cell metabolism and contributes to its restoration and regeneration. Dead Sea Salt also acts as a disinfectant and help in removing harmful substances from the skin.

Wednesday, 11 March 2009

MESSAGE OF HIS HOLINESS BENEDICT XVI FOR LENT 2009






"He fasted for forty days and forty nights, and afterwards he was hungry" (Mt 4,1-2)



Dear Brothers and Sisters!
At the beginning of Lent, which constitutes an itinerary of more intense spiritual training, the Liturgy sets before us again three penitential practices that are very dear to the biblical and Christian tradition – prayer, almsgiving, fasting – to prepare us to better celebrate Easter and thus experience God’s power that, as we shall hear in the Paschal Vigil, “dispels all evil, washes guilt away, restores lost innocence, brings mourners joy, casts out hatred, brings us peace and humbles earthly pride” (Paschal Præconium). For this year’s Lenten Message, I wish to focus my reflections especially on the value and meaning of fasting. Indeed, Lent recalls the forty days of our Lord’s fasting in the desert, which He undertook before entering into His public ministry. We read in the Gospel: “Jesus was led up by the Spirit into the wilderness to be tempted by the devil. He fasted for forty days and forty nights, and afterwards he was hungry” (Mt 4,1-2). Like Moses, who fasted before receiving the tablets of the Law (cf. Ex 34,28) and Elijah’s fast before meeting the Lord on Mount Horeb (cf. 1 Kings 19,8), Jesus, too, through prayer and fasting, prepared Himself for the mission that lay before Him, marked at the start by a serious battle with the tempter.
We might wonder what value and meaning there is for us Christians in depriving ourselves of something that in itself is good and useful for our bodily sustenance. The Sacred Scriptures and the entire Christian tradition teach that fasting is a great help to avoid sin and all that leads to it. For this reason, the history of salvation is replete with occasions that invite fasting. In the very first pages of Sacred Scripture, the Lord commands man to abstain from partaking of the prohibited fruit: “You may freely eat of every tree of the garden; but of the tree of the knowledge of good and evil you shall not eat, for in the day that you eat of it you shall die” (Gn 2, 16-17). Commenting on the divine injunction, Saint Basil observes that “fasting was ordained in Paradise,” and “the first commandment in this sense was delivered to Adam.” He thus concludes: “ ‘You shall not eat’ is a law of fasting and abstinence” (cf. Sermo de jejunio: PG 31, 163, 98). Since all of us are weighed down by sin and its consequences, fasting is proposed to us as an instrument to restore friendship with God. Such was the case with Ezra, who, in preparation for the journey from exile back to the Promised Land, calls upon the assembled people to fast so that “we might humble ourselves before our God” (8,21). The Almighty heard their prayer and assured them of His favor and protection. In the same way, the people of Nineveh, responding to Jonah’s call to repentance, proclaimed a fast, as a sign of their sincerity, saying: “Who knows, God may yet repent and turn from his fierce anger, so that we perish not?” (3,9). In this instance, too, God saw their works and spared them.
In the New Testament, Jesus brings to light the profound motive for fasting, condemning the attitude of the Pharisees, who scrupulously observed the prescriptions of the law, but whose hearts were far from God. True fasting, as the divine Master repeats elsewhere, is rather to do the will of the Heavenly Father, who “sees in secret, and will reward you” (Mt 6,18). He Himself sets the example, answering Satan, at the end of the forty days spent in the desert that “man shall not live by bread alone, but by every word that proceeds from the mouth of God” (Mt 4,4). The true fast is thus directed to eating the “true food,” which is to do the Father’s will (cf. Jn 4,34). If, therefore, Adam disobeyed the Lord’s command “of the tree of the knowledge of good and evil you shall not eat,” the believer, through fasting, intends to submit himself humbly to God, trusting in His goodness and mercy.
The practice of fasting is very present in the first Christian community (cf. Acts 13,3; 14,22; 27,21; 2 Cor 6,5). The Church Fathers, too, speak of the force of fasting to bridle sin, especially the lusts of the “old Adam,” and open in the heart of the believer a path to God. Moreover, fasting is a practice that is encountered frequently and recommended by the saints of every age. Saint Peter Chrysologus writes: “Fasting is the soul of prayer, mercy is the lifeblood of fasting. So if you pray, fast; if you fast, show mercy; if you want your petition to be heard, hear the petition of others. If you do not close your ear to others, you open God’s ear to yourself” (Sermo 43: PL 52, 320. 322).
In our own day, fasting seems to have lost something of its spiritual meaning, and has taken on, in a culture characterized by the search for material well-being, a therapeutic value for the care of one’s body. Fasting certainly bring benefits to physical well-being, but for believers, it is, in the first place, a “therapy” to heal all that prevents them from conformity to the will of God. In the Apostolic Constitution Pænitemini of 1966, the Servant of God Paul VI saw the need to present fasting within the call of every Christian to “no longer live for himself, but for Him who loves him and gave himself for him … he will also have to live for his brethren“ (cf. Ch. I). Lent could be a propitious time to present again the norms contained in the Apostolic Constitution, so that the authentic and perennial significance of this long held practice may be rediscovered, and thus assist us to mortify our egoism and open our heart to love of God and neighbor, the first and greatest Commandment of the new Law and compendium of the entire Gospel (cf. Mt 22, 34-40).
The faithful practice of fasting contributes, moreover, to conferring unity to the whole person, body and soul, helping to avoid sin and grow in intimacy with the Lord. Saint Augustine, who knew all too well his own negative impulses, defining them as “twisted and tangled knottiness” (Confessions, II, 10.18), writes: “I will certainly impose privation, but it is so that he will forgive me, to be pleasing in his eyes, that I may enjoy his delightfulness” (Sermo 400, 3, 3: PL 40, 708). Denying material food, which nourishes our body, nurtures an interior disposition to listen to Christ and be fed by His saving word. Through fasting and praying, we allow Him to come and satisfy the deepest hunger that we experience in the depths of our being: the hunger and thirst for God.
At the same time, fasting is an aid to open our eyes to the situation in which so many of our brothers and sisters live. In his First Letter, Saint John admonishes: “If anyone has the world’s goods, and sees his brother in need, yet shuts up his bowels of compassion from him – how does the love of God abide in him?” (3,17). Voluntary fasting enables us to grow in the spirit of the Good Samaritan, who bends low and goes to the help of his suffering brother (cf. Encyclical Deus caritas est, 15). By freely embracing an act of self-denial for the sake of another, we make a statement that our brother or sister in need is not a stranger. It is precisely to keep alive this welcoming and attentive attitude towards our brothers and sisters that I encourage the parishes and every other community to intensify in Lent the custom of private and communal fasts, joined to the reading of the Word of God, prayer and almsgiving. From the beginning, this has been the hallmark of the Christian community, in which special collections were taken up (cf. 2 Cor 8-9; Rm 15, 25-27), the faithful being invited to give to the poor what had been set aside from their fast (Didascalia Ap., V, 20,18). This practice needs to be rediscovered and encouraged again in our day, especially during the liturgical season of Lent.
From what I have said thus far, it seems abundantly clear that fasting represents an important ascetical practice, a spiritual arm to do battle against every possible disordered attachment to ourselves. Freely chosen detachment from the pleasure of food and other material goods helps the disciple of Christ to control the appetites of nature, weakened by original sin, whose negative effects impact the entire human person. Quite opportunely, an ancient hymn of the Lenten liturgy exhorts: “Utamur ergo parcius, / verbis cibis et potibus, / somno, iocis et arctius / perstemus in custodia – Let us use sparingly words, food and drink, sleep and amusements. May we be more alert in the custody of our senses.”
Dear brothers and sisters, it is good to see how the ultimate goal of fasting is to help each one of us, as the Servant of God Pope John Paul II wrote, to make the complete gift of self to God (cf. Encyclical Veritatis splendor, 21). May every family and Christian community use well this time of Lent, therefore, in order to cast aside all that distracts the spirit and grow in whatever nourishes the soul, moving it to love of God and neighbor. I am thinking especially of a greater commitment to prayer, lectio divina, recourse to the Sacrament of Reconciliation and active participation in the Eucharist, especially the Holy Sunday Mass. With this interior disposition, let us enter the penitential spirit of Lent. May the Blessed Virgin Mary, Causa nostrae laetitiae, accompany and support us in the effort to free our heart from slavery to sin, making it evermore a “living tabernacle of God.” With these wishes, while assuring every believer and ecclesial community of my prayer for a fruitful Lenten journey, I cordially impart to all of you my Apostolic Blessing.

Tuesday, 10 March 2009

TRÁI TIM NGƯỜI MẸ













Trong các vẻ đẹp Chúa đã dựng nên, không có gì đẹp bằng trái tim. Trái tim được coi là trung tâm phát xuất tình yêu. Tình yêu là một vẻ đẹp làm say đắm lòng người. Vì tình yêu là hình ảnh của Thiên chúa. Thánh Gioan Tông đồ định nghĩa : “Thiên chúa là tình yêu”. Thiên chúa là nguồn mạch mọi sự tốt đẹp ở đời. Thiên chúa đáng yêu mến vô song. Nên tất cả những gì phản ánh dung nhan Thiên chúa đều đáng yêu đáng mến. Trái tim, nơi phát xuất tình yêu là hình ảnh của Thiên chúa. Chính vì thế mà trái tim được yêu mến trân trọng. Vì mang hình ảnh Thiên chúa tình yêu, nên trái tim đẹp nhất trong các vẻ đẹp.

Trong các trái tim, không có trái tim nào đẹp bằng trái tim người mẹ. Có thể nói trái tim người mẹ gần với trái tim Thiên chúa nhất. Thiên chúa là tình yêu hoàn hảo. Nơi Ngài chỉ có tình yêu, không hề có một chút gì oán ghét hận thù. Trái tim người mẹ cũng chan chứa tình yêu thương. Trong trái tim người mẹ chỉ có tình thương, sự hiền hoà, sự tha thứ. Thiên chúa yêu thương ta trước khi ta yêu mến Ngài. Người mẹ yêu con cái trước khi con cái biết yêu mẹ. Thiên chúa yêu thương ta không vì giá trị của ta nhưng vì Chúa là tình yêu. Người mẹ yêu con cái là do tình yêu tự nhiên Chúa đặt vào trái tim người mẹ. Chúa yêu thương những người bé nhỏ nghèo hèn. Người mẹ yêu thương từng đứa con. Nhưng đứa con bệnh tật yếu ớt lại được yêu thương chăm sóc đặc biệt hơn. Trái tim người mẹ thật gần với trái tim Thiên chúa. Trái tim Thiên chúa chỉ biết yêu. Yêu cả khi con người phản bội. Trái tim của người mẹ cũng tựa như dòng suối, chỉ biết chảy xuống không ngừng qua năm tháng, dù không nhận được giọt nước nào ngược dòng trở lại biết ơn. Chính vì thế trái tim người mẹ đẹp nhất trong các trái tim.

Trái tim người mẹ là trái tim lý tưởng. Chúa dựng nên con người để yêu thương. Chúa dựng nên trái tim để yêu thương. Càng yêu thương con người càng đạt tới lý tưởng Chúa mong muốn. Trái tim người mẹ là trái tim yêu thương không ngừng nghỉ. Nếu người mẹ chỉ cưu mang con trong lòng chín tháng thì người mẹ tiếp tục cưu mang con trong trái tim suốt cả cuộc đời. Hình ảnh con cái lúc nào cũng đậm nét trong trái tim người mẹ. Trái tim người mẹ hoà với nhịp sống của con cái. Mẹ vui khi con thành công, khoẻ mạnh. Mẹ buồn khi con gặp rủi ro, thất bại. Mẹ đau nỗi đau của con. Mẹ khổ nỗi khổ của con. Có thể nói lòng dạ người mẹ chỉ đau một lần khi sinh con, nhưng trái tim người mẹ đau đớn, thổn thức, bồi hồi cả đời vì con.

Tất cả những điều ấy, ta thấy được phần nào qua cuộc đời của thánh nữ Mônica. Tất cả những điều ấy ta thấy được phần nào qua cuộc đời của mẹ chúng ta. Tất cả những điều ấy ta thấy được phần nào qua các bà cố đang hiện diện trong thánh lễ hôm nay.

Thế giới hôm nay đang có nguy cơ trở nên khốc liệt như sa mạc nắng cháy. Tình mẹ như những bóng cây xanh làm dịu mát cuộc đời. Thế giới hôm nay đang có nguy cơ trở nên khô cằn sỏi đá. Tình mẹ như dòng suối mát tưới gội cho tâm hồn mềm mại xanh tươi. Thế giới hôm nay đang gắng sức xây dựng nền văn minh khoa học kỹ thuật. Tình mẹ góp phần xây dựng nền văn minh tình thương. Chúng ta hãy biết ơn các bà mẹ. Chúng ta hãy biết trân trọng tình mẹ. Chúng ta hãy cầu nguyện cho trái tim các bà mẹ luôn là hình ảnh của trái tim Thiên chúa.

Lạy Chúa là nguồn mạch yêu thương, xin thương đến các bà mẹ và thánh hoá trái tim của các ngài. Amen.

Friday, 6 March 2009

Chúc mừng ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3


















Nhân ngày 8/3 , ngày quốc tế phụ nữ Xin gửi tới những người mẹ, người chị, người con gái Việt nam bó hoa tươi thắm, lộng lẫy sắc hương.
Điều phụ nữ cần nhất không phải là tiền, không phải là sôcôla, cũng không phải là hoa hồng, mà là tình yêu, sự cảm thông, chia sẻ và đặc biệt là sự tôn trọng. Phụ nữ ở Việt Nam chưa thực sự được tôn trọng! Cái sự không tôn trọng này thường đến từ nửa kia của Thế giới, nhưng đôi khi, nó cũng đến từ chính những người "cùng dấu". Sự thiếu tôn trọng phụ nữ được thể hiện ngay từ khi họ chưa được sinh ra. Nếu chỉ được sinh một đứa con, lựa chọn đầu tiên của hầu hết các cặp vợ chồng là con trai. Đôi khi, có ông chồng cũng thích con gái hơn, hoặc vì là người biết thông cảm với vợ nên không đòi hỏi cứ phải có con trai. Tuy nhiên, chính các bà vợ lại là người mong có con trai hơn cả. “Để cho yên tâm. Mình lấy chồng, cũng muốn đẻ cho nhà chồng một đứa con trai” – đây là suy nghĩ của hầu hết phụ nữ Việt Nam.Lúc còn nhỏ, các bà mẹ thường chỉ chăm chăm dạy cho con gái làm việc nọ, việc kia, trong khi những cậu con trai thì được nuông chiều hơn. Ở nông thôn, nếu nhà nghèo sẽ chỉ có con trai được đi học, còn con gái thì đầu tắt mặt tối lo làm lụng vất vả mà vẫn luôn bị mắng là “đồ vịt giời”. Lúc con gái đi lấy chồng, các bà mẹ cũng luôn căn dặn con phải chiều chồng thế này, phải chăm sóc bố mẹ chồng thế kia… mà không hề đòi hỏi con gái phải trả nghĩa nuôi dạy của mẹ đẻ như thế nào. Còn những ông bố chồng, những bà mẹ chồng thì mặc nhiên hưởng thụ các đặc quyền là “soi” con dâu, nhưng lại ra sức phục vụ, thậm chí phục tùng… con rể.“Con bé ấy may mắn thật đấy. Chồng nó tốt lắm, hiền lành, chịu khó, thương yêu vợ con!”- Họ nói cứ như việc thương yêu vợ con là một đặc ân mà đàn ông ban cho phụ nữ vậy. Trong khi đó, việc phụ nữ thương yêu, hết lòng chăm sóc, thậm chí hy sinh cho chồng, cho con lại là một lẽ đương nhiên – không thế mới là lạ! Mà “lạ” kiểu đó thì biết nhau ngay. Dư luận lập tức xông vào “tổng sỉ vả” người phụ nữ đáng thương đó. “Đàn ông như thế còn chấp nhận được, đằng này lại là phụ nữ!” – chắc hẳn ai cũng từng được nghe một câu nói tương tự như vậy. Đàn ông có thể muộn vợ, đàn bà thì khó được chấp nhận nếu muộn chồng. Người ta có thể coi một người đàn ông muộn vợ là lý tưởng: “Anh ta thành đạt, lại còn độc thân, thật lý tưởng!” nhưng “Ngoài 30 tuổi rồi mà còn chưa có chồng, tội nghiệp. Chắc là lại có vấn đề gì rồi!”. Hoặc: “Trời ơi, mọi người biết không, bà H. vừa bị phát hiện có bồ đấy, thế có ghê không. Biết là chồng bà ấy chẳng ra gì, rượu chè, trai gái, nhưng mình là đàn bà, vẫn phải giữ gìn chứ!”…Khi một người đàn ông đánh vợ, người phụ nữ được nghe lời khuyên: Cơm sôi bớt lửa, lúc chồng nó nóng thì phải tránh đi chứ, ai bảo cứ chường mặt ra để nó đánh cho. Hay ngay cả các bà mẹ vợ, dù có xót con gái đến đâu cũng vẫn cứ khuyên: Thôi con ạ, giận mất khôn thế thoi, chứ nó cũng chẳng đến nỗi nào. Con cứ nhịn một tí cho êm cửa êm nhà…Thời buổi kinh tế thị trường, đàn ông lấy lý do là phải ra ngoài làm ăn (mặc dù chả biết có làm ăn được gì không) để tối ngày la cà quán sá, rượu chè. Khi người phụ nữ phàn nàn, thì ngay lập tức hầu như mọi người đều nói: Ôi, thời bây giờ đàn ông ai chẳng thế. Miễn là họ không cờ bạc, trai gái là may lắm rồi… Đàn ông ai chả có tật, không tật này thì tật khác, và mọi người (cả 2 giới) đều gần như đương nhiên chấp nhận những tật đó của đàn ông. Nhưng phụ nữ mà có tật (tất nhiên những tật nhỏ thì không nói), là bị lên án ngay. Khi một người đàn ông lấy một cô vợ có nhan sắc không mặn mà cho lắm, người ta thường chép miệng: Sao lại lấy một đứa xấu thế không biết. Trên đời hết phụ nữ rồi hay sao? Còn nếu một cô gái lấy phải một anh chàng “Trương Chi”, người ta sẽ quay sang ca ngợi giọng hát của chàng (nếu có, hoặc không có thì sẽ… tưởng tượng ra cho có). “Đàn ông cần gì đẹp. Chỉ cần có tài” – mà cái “tài” ấy thì không phải lúc nào cũng lộ thiên, do vậy, người ta sẽ khen “hiền lành”, “tốt bụng”, “biết cư xử với nhà vợ”…Người đàn ông cần phải khoẻ mạnh để làm chỗ dựa cho gia đình, vì họ là “phái mạnh”. Tuy nhiên, nếu người đàn ông không được khoẻ mạnh thì mẹ và vợ anh ta sẽ ra sức chăm bẵm, từ miếng ăn đến giấc ngủ. Còn một cô gái nếu hay đau ốm, cô ấy chắc sẽ khó lấy chồng, mà có lấy chồng rồi thì có khi lại “chả dám ốm” nữa vì ốm thì lấy ai chăm sóc mình, chăm sóc con mình? “Đừng bắt đàn ông phải làm ba cái việc lặt vặt đàn bà ấy” - người ta nói thường nói thế. Và người đàn ông sẽ nhận được ánh mắt hết sức cảm thông của mọi người (đặc biệt là nữ giới) khi họ thấy anh ta phải lau nhà, rửa bát. Tuy nhiên, chẳng ai nói với một người phụ nữ là “đừng kiếm tiền”, hay “không nên tự mình dắt xe máy lên tầng 5”. Người đàn ông kiếm được nhiều tiền có thể làm tất cả những gì mình muốn. Họ có thể về nhà bất cứ lúc nào (vào nửa đêm, thậm chí tới sáng hôm sau) và khi ở nhà thì chỉ vắt chân lên ghế ngồi xem tivi để vợ con phục vụ. Còn nếu người phụ nữ làm ra nhiều tiền hơn chồng, cô ấy càng phải khéo léo, càng phải dè chừng lời ăn tiếng nói, kẻo “làm anh ấy chạnh lòng, tự ái”. Đàn ông lúc trẻ mải làm, mải ăn và… mải chơi. Họ không lo giữ gìn sức khoẻ nên về già thường hay ốm đau. Phụ nữ lúc ấy chính là người phải lăn ra chăm sóc. Còn nếu trộm vía, có ông nào trời cho khoẻ mạnh, mà lúc ấy bà vợ do cả đời dảnh sức khoẻ chăm sóc chồng con nên không còn dẻo dai thì ông chồng lại tự cho mình cái quyền đi tìm một người phụ nữ trẻ hơn, khoẻ hơn để “giải toả”. Khi người đàn ông phạm lỗi, họ biết mình sẽ được tha thứ. Còn khi người phụ nữ mắc sai lầm, họ biết chắc mình chẳng còn đường quay về.Phụ nữ rất cần được yêu thương, nhưng phụ nữ lại là những người luôn mang tình yêu thương đến cho người khác giới nhiều hơn những gì mà họ được nhận lại.
Phụ nữ luôn cho nhiều, nhận ít!

Saturday, 28 February 2009

Mount Tabor in the Holy Land














Mount Tabor (Hebrew: Har Tavor) is a hill rising 500m above the Jezreel Valley in the region of Galilee. Due to its strategic location along the north-south road, it has been an important fortress since ancient times. Christians have identified a rock atop Mt. Tabor as the place of the Transfiguration of Christ since the 4th century AD.

In the Bible
Deborah sent for Barak son of Abinoam from Kedesh in Naphtali and said to him, "The LORD, the God of Israel, commands you: 'Go, take with you ten thousand men of Naphtali and Zebulun and lead the way to Mount Tabor. I will lure Sisera, the commander of Jabin's army, with his chariots and his troops to the Kishon River and give him into your hands.'" (Judges 4:6-7) You created the north and the south; Tabor and Hermon sing for joy at your name. (Psalm 89:12)"As surely as I live," declares the King, whose name is the LORD Almighty, "one will come who is like Tabor among the mountains, like Carmel by the sea. (Jeremiah 46:18) Jesus took with him Peter, James and John the brother of James, and led them up a high mountain by themselves. There he was transfigured before them. His face shone like the sun, and his clothes became as white as the light. Just then there appeared before them Moses and Elijah, talking with Jesus. Peter said to Jesus, "Lord, it is good for us to be here. If you wish, I will put up three shelters—one for you, one for Moses and one for Elijah." While he was still speaking, a bright cloud enveloped them, and a voice from the cloud said, "This is my Son, whom I love; with him I am well pleased. Listen to him!" When the disciples heard this, they fell facedown to the ground, terrified. But Jesus came and touched them. "Get up," he said. "Don't be afraid." When they looked up, they saw no one except Jesus. As they were coming down the mountain, Jesus instructed them, "Don't tell anyone what you have seen, until the Son of Man has been raised from the dead." (Mt 17:1-9)

History
Due to its strategic importance, Mount Tabor has often been surmounted by a fortress. Tabor was first occupied by a Seleucid fortress in the 3rd century BC. It was later refortified in 66 AD by Josephus during the First Jewish Revolt, but fell to Roman Emperor Vespasian in 67.
In 348, Bishop Cyril of Jerusalem wrote that he preferred Mt. Tabor to Mt. Hermon as the site of the Transfiguration, and by the end of the 4th century there was a church on the site. By 570, three Byzantine churches are recorded as standing on Mt. Tabor, or perhaps one large church with chapels dedicated to Christ, Moses and Elijah.
By the 7th century, there was a fortifed Monastery of the Transfiguration associated with Armenian monks atop Mt. Tabor. A Greek bishop is mentioned in the 9th century.
Mount Tabor was an important sacred site in the Crusader period, and many hermits lived in cells on the mountain slopes. A Latin abbot was appointed to the monastery soon after 1099 and the Greek Orthodox monastery was put to us as a Benedictine house under a bishop in 1103-28. The three Byzantine churches or chapels were still standing at this time.
Islamic forces raided the monastery in 1113, but it was re-established by 1115. At some point in the 12th century, the old Byzantine triple church was replaced with a Romanesque basilica with three aisles, six bays and three apses. It enclosed the sacred rock that was believed to be the very site of the Transfiguration. Stretching north and south of the church were the extensive buildings of a Benedictine monastery, including a chapel and a small bath house.
In 1183, part of Salah al-Din's army climbed Mount Tabor and sacked the Greek monastery, but failed to take the larger fortified Latin monastery until 1187. B
eginning in 1212, Ayyubid leaders al-Adil and later al-Mu'azzam Isa built massive walls and fortifications across the entire high plateau of Mount Tabor in order to guard the road to Acre. The wall was defended by 13 towers and a rock-cut ditch. But after a nearly-successful Crusader attack in 1217, al-Mu'azzam demolished the fortifications.
Throughout this period, the Basilica of the Transfiguration seems to have survived intact and pilgrims continued to visit it. Mount Tabor was back in Frankish hands from 1229 to 1241. In 1255, it was granted to the Hospitallers, but in 1263, Baybars destroyed the church and the mountain became a royal hunting park for the Mamluks.
In the 14th century, local Christians are recorded as decking the ruined churches atop Mount Tabor with flags at the Feast of the Transfiguration (August 6), a custom that continued for many centuries.
In 1631, Fakhr al-Din granted the Franciscans permission to live atop Mount Tabor, and this permission was confirmed by the Ottoman government on various occasions in the 17th and 18th centuries. The Franciscans mainly used rooms of the ruined castle bath house until they rediscovered the ruined Crusader church in 1858 and began reconstruction. In 1924, the present church, which stands over the 12th century church, was completed.

What to See
Mount Tabor can be seen from miles around and there are fine views across the Jezreel Valley from the top, demonstrating its strategic importance. The 13th-century walls can still be seen around the summit, which is divided into Greek Orthodox (northeast) and Latin Catholic (southeast) areas. On the west side are ruins of Josephus' fortifications. The Latin section is reached through the Gate of the Winds, which was al-Adil's main fortress gate.
The Latin (Franciscan) Church of the Transfiguration (or Church of the Savior) dates from 1924 but stands on the same site and reflects the plan of the earlier Crusader and Byzantine churches.
In the crypt, the west door is now blocked by the new entrance and the lowered floor of the nave. The chapel south of the west entrance had a 12th-century wall tomb and a mosaic floor, which was relaid in 1924.
About 20m west of the church, on the north side of the entrance path, is a small ruined chapel that may have been the private chapel of the abbot in the 12th century. The entrance is in the west end of the south wall, a bench lines the walls and the base of a chancel screen can be seen. Two steps lead up to the sanctuary where a projection on the upper step marks the original location of the altar (the present altar is modern). The apse has remains of a window and two aumbries.
In the Greek area is the Church of St. Elias, built in 1845. It is a three-aisled basilica with four bays and the lower part of its apses may be early 12th century. The wall paintings were added in 1912.
Representing the ascetic hermit tradition on Mount Tabor is the Church of St. Melchizedek, located on the northwest side of the upper plateau. The name derives from a 4th-century tradition in which Melchizedek spent seven years as a hermit on Mount Tabor before meeting and blessing Abraham. Most of the present church dates fromthe 19th century, but reuses older masonry.

Dealing with Job Loss



In the reality of recent global economic recession, most individuals, at some point, will face an unexpected job loss. Companies release employees for many reasons: restructuring, downsizing, changes in cyclical demand, and other reasons out of their control.
Here are tips to help individuals and families cope with job loss.
Tip 1: Stay calm. Unexpected job loss can cause anxiety, sleeplessness, a change in appetite, and depression. Family needs still need to be met, so it's helpful to remain calm so you can make sound decisions and find new employment. Remember that the unexpected always happens in life. Job security has diminished significantly. The typical individual will change jobs several times over the course of a lifetime.
Tip 2: Apply for unemployment insurance benefits. Unemployment insurance is a combined federal and state program. The program receives much of its funding from the federal government, but it is administered by each state. The insurance program provides unemployment benefits to eligible workers. To qualify, individuals must prove they are unemployed through no fault of their own, as determined under state law. Each state sets the requirements for its citizens to receive unemployment insurance benefits.
Tip 3: Evaluate all income sources. Each individual or family should take a critical look at all sources of income before creating an emergency spending plan. In some cases, when an individual is released from employment, the company he or she worked for will offer financial and other benefits. It is important to contact the previous employer to determine if such programs exist and if you are eligible to participate. Some employers offer a severance package and educational and unemployment insurance filing assistance.
Tip 4: Develop an emergency spending plan. The length of unemployment can vary from a few days to years. Each family should begin the process of developing an emergency budget as soon as possible. Lifestyle and spending habits may have to change to meet current income levels. Families should try to maintain some sense of stability and conserve resources. Minimize or postpone taking vacations, going to movies, eating out, and purchasing clothing, toys, and other luxury items until you find another job.
Tip 5: Consider temporary insurances. Health insurance may seem like a luxury when you first lose your job. However, if for some reason you or a family member becomes ill, health insurance could literally be a life saver. There are various ways to acquire health insurance, and your previous employer may offer some type of benefit. The federal government, through Title X of the 1986 Consolidated Omnibus Budget Reconsolidation Act (better known as COBRA) established guidelines for temporary health insurance. Also available are preferred provider and health maintenance organizations, high-deductible health plans, and health savings accounts.
Tip 6: Find temporary work. Find temporary work even if it does not pay as much as your previous job. Temporary work will reduce your unemployment benefits in the short term, but it may provide some fringe benefits and reduce out-of-pocket costs significantly. While your cash income may decrease, your overall financial situation may improve. If an individual can secure temporary employment long enough, it may, in some cases, reset the unemployment insurance benefits. Temporary agencies as well as the Alabama Industrial Relations Unemployment Office may be able to assist you.
Tip 7: Keep looking for permanent work. The search for permanent work to replace your old job should begin as soon as possible. Look for temporary and permanent work immediately. Explore all options. It is important to find a stable, short-term or long-term job before unemployment insurance benefits are no longer available. Even though a job may not be equal to your previous one, consider it if it is stable. Apply for as many vacant positions as possible in every area that you could be considered reasonably qualified.
Tip 8: Evaluate education and career goals. At some point in the first month or so after losing a job, evaluate your educational and career goals. In some cases, you may become unemployed because of a change in the economy. Declines in some sectors of the economy may signal a time to retrain and enter a different line of work. Additional education and training could make you more marketable to employers in your current field or in a new area. Some training may require limited time and investment, and some may even be free. Other types of education and training may require significant commitment. The end objective is to find a new job, but it may also be time to find a new career. Careers often require some level of education or training.

Friday, 27 February 2009

Tình Yêu Gia Đình


Sáng Chúa nhật vừa qua, chúng tôi đọc được trên mạng lưới toàn cầu một bài viết về ý nghĩa của gia đình. Người đưa nó lên “xa lộ thông tin” đã không ghi tác giả là ai. Mời bạn thưởng thức câu chuyện qua bản chuyển ngữ sau đây:
Tôi đụng phải một người lạ đi ngang qua mình, tôi vội nói: “Ông vui lòng tha lỗi cho tôi.”
Người ấy đáp: “Xin bà cũng tha lỗi cho tôi nữa; tôi đã không ngó chừng bà.” Chúng tôi rất là lịch sự, người lạ này và tôi. Chúng tôi từ giã nhau, tiếp tục con đường mình đi.
Nhưng tại gia đình chuyện lại xảy ra khác. Chúng ta cư xử thế nào với những người thân yêu, cha mẹ con cái của mình. Chiều hôm ấy, khi tôi nấu cơm tối, con trai tôi đứng im lặng bên cạnh tôi.
Quay lưng lại, tôi đụng phải nó gần ngã xuống đất. Tôi giận dữ quát lên: “Tránh xa ra!” Con tôi đi ra, trái tim nhỏ bé của nó vỡ tan. Tôi đã không nhận biết mình đã nói khe khắt thế nào.
Lúc tôi nằm thao thức trên giường, tiếng nói rất nhẹ của Thượng Đế đến với tôi và bảo rằng: “Khi đối xử với kẻ xa lạ, con xử dụng sự lễ độ thông thường, nhưng con cái mà con thương yêu, xem ra con lại lạm dụng. Hãy xuống bếp và nhìn dưới nền nhà, con sẽ thấy một số hoa ở nơi cửa. Đó là những đóa hoa con của con đã mang về cho con. Chính nó đã hái những đóa hoa ấy: mầu hồng, mầu vàng và xanh dương.”
Con tôi đứng rất lặng thinh để không phá mất sự ngạc nhiên, và bạn không bao giờ trông thấy nước mắt tràn ngập đôi “cửa sổ linh hồn” của nó. Lúc này, tôi cảm thấy mình thật bé nhỏ, và bây giờ những hạt lệ của tôi bắt đầu rơi.
Tôi lặng lẽ tới quỳ xuống bên giường con mình; “Dậy đi con, dậy đi con”, tôi gọi. “Con đã hái những đóa hoa này cho mẹ phải không?” Nó nở nụ cười: “Con đã nhìn thấy những hoa này bên gốc cây ngoài vườn. Con biết mẹ yêu chúng, đặc biệt những bông mầu xanh dương. Tôi nói: “Con à, mẹ rất ân hận về hành động mẹ đã làm cho con hôm nay; chính ra mẹ không nên la hét con như thế.” Con tôi trả lời: “Ồ, mẹ à, chuyện ấy không sao. Dù thế nào đi nữa con vẫn yêu mẹ”. Tôi nói: “Con à, mẹ cũng yêu con nữa, và quả là mẹ thích những hoa này, nhất là hoa mầu xanh dương.”
Bạn có ý thức rằng nếu ngày mai chúng ta chết, công ty mà chúng ta phục vụ có thể tìm người khác để thay thế chúng ta một cách dễ dàng trong vài ba ngày. Nhưng những người thân yêu trong gia đình chúng ta sẽ cảm thấy mất mát suốt những ngày tháng còn lại của đời họ.
Khi suy nghĩ về điều đó, chúng ta nghiệm thấy chuyện mình lao đầu vào công việc nhiều hơn là vào gia đình của riêng mình � thực sự là một cuộc đầu tư dại dột, phải không bạn?
Từ “GIA ĐÌNH” bao gồm người cha, người mẹ và con cái. Trong Anh ngữ gia đình là “FAMILY”, từ này có một ý nghĩa rất sâu đậm, được diễn đạt như sau:
FAMILY = FATHER AND MOTHER, I LOVE YOU!
CHA VÀ MẸ ƠI, CON YÊU THƯƠNG CHA MẸ.
Chúng ta hãy gìn giữ mái ấm gia đình mình, đặt ưu tiên cho hạnh phúc gia đình. Chúng ta có thể hy sinh công ăn việc làm cho tình yêu gia đình, chứ không bao giờ làm điều trái ngược lại, nghĩa là hy sinh tình yêu gia đình cho công ăn việc làm. Vì gia đình thì thiêng liêng cao quí, còn công việc chỉ là vật chất vô thường.

ĐHY Phaolô-Giuse Phạm Đình Tụng



Đức Hồng Y Phaolô-Giuse Phạm Đình Tụng, sinh ngày 20.05.1919, trong một gia đình Công giáo đạo đức tại thôn Bình Hoà, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, thuộc giáo họ Cầu Mễ, giáo xứ Quảng Nạp, giáo phận Phát Diệm. Năm 1925 ngài đi học tại trường làng. Năm 1927 ngài được cha nghĩa phụ Phêrô Phạm Bá Trực đưa ra Hà Nội học tại ngôi trường do cha vừa thành lập ở giáo xứ Kẻ Sét. Thấy ngài ngoan ngoãn, hiền lành, có tư chất thông minh lại ẩn giấu một nghị lực khác người, cha Phạm Bá Trực đã xin cho ngài đi tu và ngài đã trúng tuyển vào Tràng Tập Hà Nội năm 1929. Năm 1933, ngài là học sinh đầu tiên của Trường Tập Hà Nội thi đậu bằng Certificat d’Étude Primaire và ngài được gọi vào Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, toạ lạc ở giáo xứ Hoàng Nguyên, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông. Năm 1939, tốt nghiệp Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, ngài được cử đi phục vụ tại giáo xứ Xuy Xá, thuộc huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông. Năm 1940, ngài được gọi vào Đại Chủng viện Liễu Giai, Hà Nội và ngài theo học chương trình triết học tại đây cho đến năm 1942. Ngày 06/06/1949 ngài được truyền chức linh mục tại nhà thờ Chính Toà Hà Nội. Năm 1949 ngài được chỉ định làm tuyên úy Cô Nhi viện Têrêxa tại Quần Ngựa. Năm 1950, ngài được bổ nhiệm làm Phó xứ rồi làm Chính xứ Hàm Long thay thế cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê đi làm giám mục Hà Nội. Năm 1953, ngài thành lập Trung tâm Bái ái-Xã hội Bạch Mai, trên khu đất khoảng 4000 m2, nhằm trợ giúp những người khốn khổ trôi dạt về từ các vùng nông thôn bị đang bị chiến tranh tàn phá. Năm 1955, ngài được bổ nhiệm làm Giám đốc Tiểu Chủng viện Thánh Gioan Hà Nội- Một Liên Tiểu Chủng viện bao gồm khoảng 200 tiểu chủng sinh của các giáo phận Hà Nội, Bùi Chu, Hải Phòng, Bắc Ninh, Phát Diệm, Thái Bình, Thanh Hoá. Trong số này về sau có hơn 60 người làm linh mục, trong đó có 3 vị làm giám mục. Năm 1963, ngài đựơc Toà Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Bắc Ninh. Trong hơn 30 năm làm Giám mục Bắc Ninh, bằng các sáng kiến mục vụ độc đáo, ngài đã biến Toà Giám Mục trở thành một mái ấm gia đình, nơi chủ chăn và đoàn chiên gặp nhau, cùng nhau chia vui sẻ buồn. Ngày 04.07.1990 Toà Thánh đặt ngài làm Giám quản Tổng Giáo phận Hà Nội, kiêm Giám đốc Đại Chủng viện Hà Nội. Ngày 23.04.1994, vào tuổi 75, thay vì được nghỉ hưu theo Giáo luật, thì Toà Thánh lại đã bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám Mục Hà Nội. Đến ngày 26/11/2004 ngài được ĐGH Gioan Phaolô II phong tước Hồng Y tại Rôma. Ngoài ra, ngài sẽ còn nắm các chức vụ quan trọng khác như Chủ tịch HĐGM Việt Nam (1995-2001), Giám quản GP Hưng Hóa (1995), Lạng Sơn (1998), Hải Phòng (1999).
Ngày chúa nhật ngày 22.02.2009, lúc 10 h 10’, ngài đã được Chúa gọi về trong tình yêu thương chăm sóc và lời nguyện cầu của Đức Tổng Giám Mục Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt, của quý cha quý thầy quý soeurs phục vụ tại Toà Tổng Giám Mục, hưởng thọ 90 tuổi, trong đó có 80 năm tu hành, 60 năm linh mục, 46 năm giám mục và 15 năm hồng y.
Trong 90 năm làm con chúa, đặc biệt trong tư cách là mục tử, Đức Hồng Y là một nhà tu hành mẫu mực, là một lãnh tụ tôn giáo khôn ngoan, là một tông đồ nhiệt thành và được đồng nghiệp kính trọng, là một nhà giáo dục đào tạo kiên nhẫn, là một chủ chăn hiền hoà và can đảm luôn tận tâm hy sinh phục vụ đoàn chiên, được đoàn chiên thương mến. Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt viết về ngài nhân dịp mừng thượng thọ cửu tuần của ngài vào năm 2008 rằng: “ …Trong những năm tháng qua, Đức Hồng Y đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời cho Chúa, cho Hội Thánh và đã để lại biết bao thành quả mà ngày nay chúng ta được hưởng nhờ. Ngài là tấm gương sáng cho chúng tá về đời sống thánh thiện đạo đức, về sự tận tuỵ phục vụ Chúa và Hội Thánh, về tầm nhìn xa trông rộng trong việc đào tạo nhân sự, về sự vui lòng chấp nhận thánh ý Chúa và về sự khiêm nhường quên mình sâu xa. Ngài là món quà quý giá Chúa tặng ban cho chúng ta. Qua ngài, biết bao ơn phúc của Chúa đổ tràn trên Tổng Giáo Phận Hà Nội, trên mỗi người chúng ta”. Đức Hồng Y đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển Giáo hội Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo, quản trị và tông đồ mục vụ. Ngài là cây đại thụ cuối cùng của Giáo hội Miền Bắc đã được Chúa đưa về Trời. Trong tâm tình kính yêu và tri ân ngài sâu xa, chúng ta hiệp lòng hiệp ý dâng lời tạ ơn với ngài và cầu nguyện cho ngài.

Thursday, 26 February 2009

About Sapa








Located in Vietnam's remote North West Mountains, Sapa is famous for both its fine, rugged scenery and also its rich cultural diversity.
Sapa, at 1,600m above sea level, is an incredibly picturesque resort town that lies on the Hoang Lien Son mountain range near the Chinese border in northwestern Vietnam, known as "the Tonkinese Alps".
Sapa and its surrounding region is host to many hill tribes, as well as rice terraces, lush vegetation and Fansipan (Phan Xi Phang), the highest peak in Vietnam at 3,143m. As a result of a recent surge in popularity Sapa has rapidly become a tourist hot-spot.
Sapa is home to a wealth of colorful, diverse hill tribes, who have steadfastly resisted integration into Vietnamese society and modern life. In fact, the hill tribes, including the Hmong, Dao (Dzao), Tay, Day (Dzay) and Xa Pho, comprise the majority of inhabitants in the area, outnumbering the Vietnamese (Kinh) who prefer the warmer low lands.